nguyễn văn biên
THEO
VẾT NGƯỜI XƯA…
(
Tưởng niệm lão huynh Hàn Cung Thương và thi phẩm TỪ ĐỘ TRĂNG TÀN)
Lòng ta là những hàng
thành quách cũ
Tự ngàn năm vọng lại tiếng loa xưa..
Vũ Đình Liên
Ở
thế kỷ 20 nhà thơ Vũ Hoàng Chương viết rằng: “..Đời họa còn ta là theo vết người xưa.”, cái vết “ hùng tâm, tráng
chí” của một “ thời hoàng kim đã mờ trong
sương mơ" – (lời một bài ca), cái thời lý tưởng của người xưa đó chỉ còn
trong sách vở, trong những chuyện kể để hòng giữ lấy chút lửa trong cái buổi
lạnh ngắt kim tiền này, cái thời chúng ta đang sống bội thực những giáo điều về
đạo đức, niềm tin, vì cái thứ đạo đức đã “ úa lục, phai hồng”, chỉ trơ lại hơi
đồng tanh ngắt…
Trong khung trời đó, thực tại đã dựng
nên vách ngăn lừng lững trước mặt mà những tâm hồn yếu đuối không dễ gì qua
được:
“ Chẳng
dễ gì qua được
Vách đời đứng uy nghi
Con ngựa già mắt đỏ
Đứng thở cuối chiều kia…”- ( Tình
khúc số không- thơ Lê Trọng Minh)
Thực vậy
cuộc sống này luôn dồn đuổi mỗi thân phận, chẳng dễ gì qua được, không những
vách đời đứng uy nghi mà có lẻ chẳng dễ gì vượt qua được chính mình…, nếu trong
huyết quản này không có được chút hùng khí của tiền nhân,…
!
!
Những điêu
linh, những bộn bề của đời một con người ai cũng vậy nhưng với công dân Nguyễn
Đình Cung Thương hay thi sỹ Hàn Cung Thương hình như đã có cùng tâm sự với
người xưa:
“Tráng sỹ bạch đầu bi hướng thiên
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên
Xuân lan thu cúc đành hư sự
Hạ thử, đông hàn đoạt thiếu niên”. (
Nguyễn Du)
Cái “hùng
tâm” và “sinh kế” luôn làm chao đảo tráng chí mà với anh hình như đã gom đủ trong mấy câu lục bát của Lê Giao Văn- một vị
niên trưởng đồng thời là bạn thơ thân thiết đã viết về anh:
“ Sáu
mốt năm-hạt bụi trần
Ngựa què, kiếm gãy qua thân phận người
Khổ đau trộn với niềm vui
Vẫn hào hoa giữa chê, cười thị phi
Từ mồ côi bước ra đi
Giữa thời chiến loạn – chim di, gió ngàn…
Rồi khi bão tạnh , mưa tan
Vùi thân cơm áo đa đoan quê người.” ( Hẹn
cuộc tương phùng-Lê Giao Văn)
TỪ ĐỘ TRĂNG
TÀN- tên tập thơ của anh, ta bắt gặp ngôn từ của một thời xưa cũ, ước lệ, trang
nghiêm như những hàng thành quách cũ, sẽ có người buộc miệng thốt lên: đời họa còn ANH là theo vết người xưa…!
Thật vậy ta thử đọc:
“Thơ
viết đôi dòng bi tráng
Ngất trời hào khí mênh mang
Sinh chẳng phùng thời đành vậy
Vỗ bầu rót chén kinh bang.”
(Tình
sử Lương Sơn Bạc- HCT)
Hoặc:
…Ngày
trở lại ngó sông dài xơ xác
Sầu
miên man xiêu lạc bước quan hà
Vầng
trăng sớm lạnh lùng treo đỉnh dốc
Tráng
sỹ về đầu bạc giữa phong ba.
(Ngày trở lại- HCT)
Nhưng tôi
nghĩ anh làm thơ vì:
“ Những lúc ngã lòng vịn câu thơ mà đứng
dậy..”-( Thơ Phùng Quán)
Cái ngôn
ngữ cũ xưa qua tâm tình bi tráng của Từ Hải hay của ai kia… như vận vào đời tác
giả:
“ Cung đàn xưa tắt lịm
Đâu dáng Kiều mê say
Không
rượu nồng chuốc cạn
Bóng trăng suông lạnh đầy. ( Anh linh Từ Hải- HCT)
hay:
“ Tuyết lạnh rơi đầy chí cả
Đất trời nghiêng ngã hoang mê
Quạnh
hiu vầng trăng Thu xế
Thù
sâu phong lấp lối về… ( Tình sử Lương sơn
bạc-HCT)
Và tầng
tầng những quắt quay làm anh chóng mặt hồ như quị ngã và anh đã vịn câu thơ
đứng dậy và di trú trong nó hòng tìm chút tĩnh tại trong trùng trùng quăng quật
xác xơ:
“ Như con
chim về cuối trời quên lãng
Chở tàn phai trên đôi cánh thu vàng
Phút tĩnh lặng giữa hai bờ hư- thực
Chợt nhớ mình còn chút nợ nhân gian…”
( Như vết chim bay-HCT)
Và anh tự thú nhận:
“Tôi làm thơ vì không thể không làm thơ
Tôi làm thơ vì đó là hơi thở
Như cuộc đời phải nặng nợ áo cơm..”
Và nếu có ai truy hỏi tiếp anh sẽ trả
lời nghe trớt quớt- Vô sở cầu:
“Tôi làm
thơ ? Vì đơn giản.. Thích làm thơ”(Thơ và
tôi- HCT)
Những lúc thân mật khinh khoái anh thường
gọi tôi là “lão đệ” nghe có vẻ “tuồng tích” nhưng riết rồi cũng thấy vui, và
anh luôn giữ khẩu khí của Quảng Nam thương ghét rạch ròi, chữ nghĩa hùng tráng
sang trọng nhưng anh rất thiệt thà, một vẻ ngoài góc cạnh nhưng tâm hồn ngọt
ngào, chân tình và dễ mềm lòng..
Đoc hết TỪ
ĐỘ TRĂNG TÀN và những thi phẩm khác của Hàn Cung Thương chúng ta sẽ không tìm
thấy ở đó một hình thức thơ tân kỳ hoặc cấu tứ mới mẻ theo kiểu hàn lâm chẻ sợi
tóc làm tám… hay để tìm cầu những chân trời mới mẻ…, mà sẽ bắt gặp cái tình bi
thống tha thiết, đọc thơ ta ngỡ gặp lại vết thương của chính mình đâu đó thấp
thoáng trong một vài câu thơ, cái bi tráng trộn lẫn trong cái nổi trôi của phận
người lên bờ xuống ruộng và cái chúng ta nhận được ở đây là một tấm chân tình:
tình yêu, tình bạn, tình người…thiệt thà, một đời trải nghiệm với những điêu
linh không ai giống ai để rồi viết nên:
“ Là thu
từ
độ phôi pha
Là trăng
tàn
lạnh trên tà áo phai
Là chim
từ
lạc đường bay
Là
hương gió thoảng
qua
ngày viễn phương
………………………………………….
Là thôi
từ
bước chân đi
Là đêm tàn mộng
từ khi tạ từ.” ( từ độ
trăng tàn- HCT)
Cái tuổi “ tri thiên mênh” mà anh đã tự cho
mình “Anh tiếc mình già cốc đế đại vương”
nhưng anh không hề là người nhu nhược, và “lão huynh” đã có khi dừng lại bên
sông cuộc đời mình, theo nước bồng bềnh đưa, nghe tôm cá giởn, nhưng mới hay
đường xa áo mỏng mà chuyện quan hà cố sự luôn đeo đẳng nặng lòng, và rồi cũng
bó tay nhìn những phân kỳ tự trong lòng mình, những ngày ngồi gượng, những
chiều lở chuyến xe…niềm vui tày gang còn lại là những đọa lạc rã rời:
“và cứ thế ta hoang đàng man dại
Kiếp
cuồng ca trên khắp nẻo giang hồ
Vào
thăm thẳm chiều hoang buồn vạn đại
Dốc
nghiêng bầu ấm lạnh với hư vô” ( cuồng
sỹ ca- HCT)
Và da diết:
“ Lời tạ từ viết giữa tàn đông
Nâng cổ áo nghe nổi lòng se lạnh
Mùa xuân lại về trong bất hạnh
Cũng đành lòng chấp nhận một đời sông.”
……………………………………………………..
Và: “ Năm mươi năm tên tội đồ
loạng quạng
Đánh mất mùa xuân từ độ trăng tàn.”
(Thơ
viết nhân ngày cưới bạc-HCT)
Cũng từ đó anh: “ Nguyện lòng rũ áo trả nhân gian”
Và anh đã
dũng cảm chọn:
“ Xin
từ tạ những tình yêu tuyệt đối
Những tình yêu tương đối cũng đành thôi
Bờ môi ấm và hương nồng mê hoặc
Đã chìm tan trong song biển luân hồi”
“Xin giã biệt chốn phồn hoa đô hội
Những vòng tay thân thiết gọi mời
Những bình minh đăng quang ngàn dư ảnh
Những hoàng hôn bóng xế ngả bên trời.
…………………………………………………………………
………………………………………………………………..
Xin
từ tạ nét trang đài huyễn ảo
Huyền
thoại nào phiêu dạt giữa đời sông
Xin
giã biệt tháng năm dài chao đảo
Mộng
phù vân thoáng chốc lục phai hồng”
(Tuyệt tình ca-HCT)
( Tình yêu
tuyệt đối ở đây ở một nghĩa hẹp là sự gắn bó bền chặt của hai người yêu nhau
theo lẻ thường chứ không ở cái nghĩa rốt ráo…)
Rồi cũng từ
đây ta thấy một giọng bỡn cợt có vẻ trịch thượng nhưng dễ thương đánh dấu một
bước sang trang của đời anh:
“Chuyện
cuối năm đêm nằm nhớ tết
Nhớ
tùm lum thế sự um sùm
Thương
nổi đời lôi thôi lếch thếch
Thương
mọi người lo tết lo xuân”
(Chuyện
cuối năm-HCT)
Một bứt phá
ngoạn mục của tâm thức để làm một việc “ phi thường”: trở thành Tu sỹ…làm một
du tăng hành cước khắp chốn…đi tìm cái chính mình trong vô thỉ và suy gọi tĩnh
thức tự thân tâm từ độ trăng tàn:
“Giữa
quãng đời điêu linh
Giữa muôn trùng bể khổ
Trăng Lăng Già đức độ
Soi sáng đời u minh
(Đạo
thành-HCT)
Và nhà thơ
quay về đầu phục dưới Phật đường đảnh lễ bổn sư:
“
Con từ lạc bước mù sa
Trầm
luân trong cõi ta bà Thái hư
Cánh
buồm in dấu tổ sư
Dấu
hài trí tuệ chân như cội nguồn
Và tha
thiết:
Lạy thầy dù gió mưa tuôn
Vẩn
còn hiển hiện tiếng chuông đại từ..”
(Thầy về- thơ HCT)
Từ đây thi
sỹ của chúng ta đã vượt thoát để trở thành Tỳ Khưu Thích Nhuận Hoài với một
khẩu khí phiêu hốt:
Đời như gió thoảng mây bay
Hay-
là ở chỗ
chẳng hay ho gì.
Cuối cũng nhận được
điều chi
Điều chi chẳng có
Điều cho bận lòng… ( Mưa
qua lều cỏ- thơ HCT)
Chúng
bằng hữu luôn cầu nguyện cho anh phật sự tấn thành, công phu viên mãn, nhưng
rồi vô thường ập đến, nó chẳng vị riêng ai kể cả nhưng bậc tu sỹ “cắt ái ly
gia”, và nó đã đến với anh một đêm trăng tròn nhất của tiết trọng thu và người
thơ đã trả thân tứ đại về cho cát bụi, chúng ta tiễn anh “không nước mắt, không
rượu mời” vì anh là Tỳ Khưu Thích Nhuận Hoài với hùng tâm tráng chí và anh đã
theo kịp “vết người xưa” trong sự kính ngưỡng của anh em, bè bạn…trong đó có
“lão đệ”.
Xin trích ra đây khổ thơ cuối cùng anh
đã viết, thay cho lời kết mà theo nhà thơ Lê Giao Văn là bản điếu văn viết
trước cho chính mình:
“Thân trai vạn dăm đâu chùn bước
Chí lớn lồng trong nhịp sống hùng
Rồi mai giủ áo phong trần ấy
Gõ nhịp chèo qua nẻo sắc-không.
(
Tráng khí ca-Thích Nhuận Hoài)
Nguyện
cầu cho anh Phật quả viên thành !
Nguyên
Bửu đường, Trọng thu, Nhâm Thìn 2012.
NVB
(Cẩn bút.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét